Lê Quý Đôn (chữ Hán: 黎貴惇), (1726 - 1784), tên thật Lê Danh Phương tự
Duẫn Hậu (允厚), là quan thời Lê trung hưng - chúa Trịnh, ông đồng thời cũng là một nhà
khoa học trong nhiều lĩnh vực.
Ông sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ, niên hiệu Bảo Thái (Lê Dụ Tông) thứ
7 (tức 2 tháng 8 năm 1726), quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn
Đồng Phú, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và mất ngày 14 tháng 4 năm
Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (tức 11 tháng 6 năm 1784).
Chữ Đại (大) hay chữ Thái (太)?
Tương
truyền thuở nhỏ, một hôm cậu bé cởi truồng đi tắm với các bạn. Có một vị quan
Thượng thư đồng liêu với cha (là Lê Trọng Thứ) tới thăm, hỏi đường đến nhà. Cậu
liền đứng dạng chân và dang tay ra bảo quan Thượng:
Nếu
ông biết được cháu đang ra dấu chữ gì, cháu sẽ chỉ nhà cho ông.
Quan
Thượng cũng tha thứ cho sự nghịch ngợm của tuổi trẻ nên bỏ đi. Cậu cười ầm lên
và bảo với các bạn:
Ông
ấy làm quan to mà không biết chữ các bạn ơi!
Quan
Thượng bực mình quay lại nói:
Trẻ
con đừng hỗn láo. Mày mới học lỏm được chữ Đại (大) mà đã dám đi
trêu chọc người rồi.
Cậu
càng cười to hơn:
Thế
thì ông không biết chữ thật! Có cái chấm ở dưới nữa thì là chữ Thái (太) chứ sao lại chữ
Đại!
Rắn đầu rắn cổ
Khi
quan Thượng vào nhà ông Lê Trọng Thứ, mới biết cậu bé ấy là con của bạn mình.
Ông kể lại câu chuyện dọc đường. Lê Trọng Thứ gọi con ra trách mắng và đánh
đòn. Quan Thượng thấy ông thông minh nên đã xin tha cho ông với điều kiện phải ứng
khẩu một bài thơ tạ tội. Cậu xin quan Thượng ra đầu đề. Quan Thượng nói:
Phụ
thân cậu đã bảo cậu “rắn đầu rắn cổ”, cậu cứ lấy đó làm đề bài.
Cậu
ngẫm nghĩ một chốc rồi đọc:
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!
Rắn đầu
biếng học quyết không tha
Thẹn đèn hổ lửa
đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm rát
cổ cha.
Ráo
mép chỉ quen tuồng lếu láo,
Lằn
lưng chẳng khỏi vết roi da.
Từ nay Trâu Lỗ
xin siêng học,
Kẻo hổ mang
danh tiếng thế gia!
Đề
bài là do quan Thượng đặt ra, ý nói cậu bé cứng đầu, lười học. Vậy mà Lê Quý
Đôn đã tài tình sử dụng từ “rắn” để ghép vào trong nội dung các câu thơ của
mình: rắn liu điu, rắn đầu, rắn hổ lửa, rắn mai gầm, rắn ráo, rắn thằn lằn, rắn
hổ trâu, rắn hổ mang và ví mình như Khổng Tử – Mạnh Tử (từ nay Trâu Lỗ xin
siêng học – Lỗ là quê hương Khổng Tử và Trâu thành, Trâu quốc là quê hương Mạnh
Tử, cũng có thể Châu là đọc trại từ nhà Chu, thời Mạnh Tử). Quan Thượng hết sức
thán phục.
Tam xuyên (三川)
tứ mục (四目)
Nhà
Lê Quý Đôn ở gần ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý. Một hôm, một vị quan bên Liêu
Xá đến thăm ông Lê Trọng Thứ. Vị quan có nghe tiếng cậu bé con quan Thượng Lê rất
hay chữ, muốn trực tiếp thử tài. Nể tình, ông Lê Trọng Thứ cho gọi Lê Quý Đôn tới.
Khoanh
tay, kính cẩn chào khách xong, Lê Quý Đôn đứng nép bên cha, chờ đợi.
Ông
khách nói:
Ta
nghe cháu còn bé mà đã hay chữ. Vây ta ra vế đối, cháu đối lại nhé!
Lê
Quý Đôn lễ phép:
Dạ,
xin Bác ra đề ạ!
Ông
khách nói :
Nhà
cháu gần ngã ba sông, vậy ta ra vế đối là tam xuyên (三川)!
Vế
đối giản dị mà hóc búa, chữ tam (三) có ba nét sổ
ngang nhưng dựng lên, thành ba nét sổ đứng và là chữ xuyên (川). “Tam xuyên” (三川) có nghĩa “ba
con sông”.
Lê
Quý Đôn chưa đáp ngay mà cứ trân trân nhìn ông khách có mang cặp kính. Ông
khách rất vui vì tìm được vế đối rất hiểm. Thấy Lê Quý Đôn chưa đối được, ông
khách hỏi:
Sao,
có đối được không, cháu bé?
Lê
Quý Đôn lễ phép thưa:
Dạ,
cháu xin đối là tứ mục (四目).
“Tứ
mục” (四目)
có nghĩa “bốn con mắt”. Ông khách chỉ còn biết thốt lên:
Tuyệt
vời!
Chữ
đối lại thật chuẩn, chữ “tứ” (四) viết quay dọc lại, cũng là chữ “mục” (目).
Quay
sang ông Thượng Lê, khách xuýt xoa:
Thằng
bé này về sau văn chương sẽ lẫy lừng đấy!
0 nhận xét:
Đăng nhận xét