GVC. TS. Nguyễn Văn Nghiến
Video Buổi thuyết trình của Michael Porter tại Việt Nam
http://www.youtube.com/watch?v=S5oOWFaMjSY
“Muốn trở thành công ty tốt
nhất là một sai lầm”
SGTT.VN - Trao đổi với đông
đảo doanh nhân tại hội thảo Cạnh tranh và chiến lược công ty ngày nay sáng
29.11 tại Hà Nội (trường doanh nhân PACE tổ chức), giáo sư Michael Porter, cha
đẻ của chiến lược cạnh tranh nhấn mạnh: nếu bạn muốn trở thành công ty tốt nhất
trong một ngành thì đó là một sai lầm.
GS
Michael Porter nói, có một xu hướng tự nhiên của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp
là làm sao trở thành công ty tốt nhất trong lĩnh vực của mình. Một công ty đóng
tàu tốt nhất, một ngân hàng tốt nhất, một công ty thực phẩm tốt nhất…Thế nhưng
đó lại là một cái bẫy.
Phải là người độc nhất
Giáo
sư Michael Porter.
“Bởi vì trong cạnh
tranh thì không có công ty nào là tốt nhất, trong bất cứ ngành nào”, GS Michael Porter lý giải.
Công ty tốt nhất phụ thuộc vào nhu cầu mà chúng ta cố gắng đáp ứng, trong khi
đó nhu cầu thì rất khác nhau. Ví dụ, cái xe nào là tốt nhất? Chẳng có cái xe
nào tốt nhất cả, mà tất cả phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng, phụ thuộc vào
số tiền khách hàng muốn chi trả, vào sự sử dụng chiếc xe khách hàng sẽ sở hữu.
Tất cả phụ thuộc vào nhu cầu nào mà bạn cố gắng đáp ứng được.
“Do đó, khi tính đến
chiến lược, bạn không thể nghĩ đến việc trở thành người tốt nhất, mà phải nghĩ
làm sao mình trở thành độc nhất (unique). Làm sao tạo nên giá trị độc đáo, đem
lại cho khách hàng của mình, dù là trong bất kỳ lĩnh vực nào”.
GS
Michael Porter nhấn mạnh, sai lầm tồi tệ nhất trong chiến lược là tham gia vào
cuộc cạnh tranh về cùng một sản phẩm giống nhau. Điều đó sẽ khó đem lại thành
công, với bất kỳ ai, và nó cũng không tốt cho khách hàng vì họ không có sự lựa
chọn nào khác.
“Nói
cách khác, chiến lược có thể đem lại thành công là bạn phải đem lại sự lựa chọn
khác cho khách hàng, giúp mang lại vị trí độc quyền của công ty”.
Ba lỗi cơ bản khi nghĩ về
chiến lược
Theo
GS Michael Porter, khi nói về chiến lược, ông thấy có ba lỗi cơ bản.
Một
là các nhà lãnh đạo nhầm chiến lược với mục tiêu. Nhiều nhà lãnh đạo khi lên
chiến lược, họ nghĩ rằng “tôi muốn trở thành số một trong ngành của mình, tôi
muốn có thị phần lớn nhất …”. Nhưng đó là mục tiêu, nhưng chiến lược lại khác.
“Đánh
đổi” trong chiến lược
Một
trong các yếu tố giúp xác định chiến lược tốt của công ty, theo giáo sư Michael
Porter, là sự đánh đổi rõ ràng, xác định điều gì không làm.
Ông
nêu ví dụ về Nespresso, một công ty hàng đầu thế giới về cung cấp các sản phẩm
cà phê cao cấp Nestle. Theo đuổi mục tiêu cung cấp cà phê espresso chất lượng
cao, dành cho người tiêu dùng và giới văn phòng, công ty này đã “mạnh dạn” loại
bỏ thị phần dành cho khách hàng có nhu cầu giá thấp. Đồng thời, hãng này cũng
chỉ bán hàng trực tuyến hoặc tại 200 cửa hàng cà phê tại các thành phố lớn, chứ
không phân phối đại trà tại các cửa hàng thực phẩm thông thường
Chiến
lược là lợi thế cạnh tranh, điều cho phép một công ty trở thành thứ nhất, thứ
hai, thứ ba hay bất kỳ mục tiêu nào mà chúng ta nghĩ tới.
“Chúng
ta cần phân biệt rõ ràng chiến lược với mục tiêu”, ông nói.
Thứ
hai là cần phân biệt rõ chiến lược với bất kỳ bước đi hành động nào mà chúng ta
có thể thực hiện. “Tôi nghe các nhà lãnh đạo nói suốt rằng, công ty của họ muốn
trở nên quốc tế hơn, muốn trở nên cạnh tranh hơn. Nhưng đó cũng không phải là
chiến lược”. Đó là một bước thực hiện chiến lược.
Chiến
lược là vị trí độc nhất mà bạn muốn chiếm giữ. Mua bán sáp nhập hay
outsourcing… là những bước thực hiện để đưa chúng ta tới nơi mình muốn tới, là
vị trí mà ta muốn có trên thị trường, chiến lược không phải là các bước đi cụ
thể.
Cuối
cùng, chiến lược không phải là tầm nhìn (vision). Tầm nhìn rất rộng, nhiều mục
đích về lợi ích dài hạn công ty đem lại cho xã hội. Các tuyên bố về tầm nhìn đều
hay nhưng không phải là chiến lược.
Chiến
lược là điều rất cụ thể, về việc chúng ta cần đáp ứng được nhu cầu gì, khách
hàng nào trong kinh doanh, ai mà chúng ta muốn phục vụ, làm sao phục vụ họ tốt
hơn? “Chiến lược là vị thế tổng thể mà công ty muốn chiếm giữ trong kinh doanh
của mình, mà cần có lợi thế cạnh tranh, nếu không có lợi thế cạnh tranh thì
không có ai thành công” ông nói.
Cần sản phẩm phù hợp chứ
không phải sản phẩm tốt nhất
GS
Michael Porter khẳng định không có một Cty nào tốt nhất thế giới mà chỉ có những
Cty hoạt động hiệu quả và các Cty kém hiệu quả mà thôi. Mục đích cuối cùng của
Cty là lợi nhuận. Phải sản xuất ra sản phẩm như thế nào, nhằm vào đối tượng
khách hàng nào một cách cụ thể và bền bỉ để đảm bảo đạt được hiệu quả cao, lợi
nhuận cao nhất mang về cho Cty.
Một
chiếc xe tải không phải là sản phẩm tốt cho người đi du lịch nhưng lại rất hiệu
quả cho người làm vận tải. GS Michael Porter chỉ ra bài học thành công của tập
đoàn Ikea (Thụy Điển). Tập đoàn này chuyên sản xuất và kinh doanh đồ gỗ nội thất.
Đối tượng mà Ikea nhắm tới là người trẻ tuổi, có học thức, ưa hàng thiết kế mới
lạ nhưng không có khả năng mua hàng đắt tiền.
Chiến
lược cạnh tranh của Ikea là làm ra sản phẩm rẻ, thiết kế đa dạng về kiểu dáng
và màu sắc phù hợp phòng ở của lứa tuổi teen, dễ tháo lắp chứ không phải là sản
phẩm tốt nhất thế giới. Để hạ giá thành sản phẩm, Ikea không cung cấp dịch vụ
chuyển hàng về tận nhà. Thay vào đó Ikea làm ra sản phẩm dễ tháo lắp để khách
hàng dùng xe hơi của mình tự chở về lắp ráp lấy.
Chiến
lược này đã làm nên sự khác biệt của Ikea. Để vạch ra và thực hiện được chiến
lược cạnh tranh của mình, Ikea đã biết đánh đổi chiến lược những khả năng mình
có thể, chọn lấy cái độc đáo nhất của mình để phát huy.
Mỗi
một thời kỳ, Ikea đều nghiên cứu sở thích của đối tượng khách hàng tuổi teen mà
mình đang nhắm tới. Họ bền bỉ duy trì tính liên tục của chiến lược cạnh tranh,
tìm hiểu khách hàng có thay đổi gì về thị hiếu để kịp thời đáp ứng chứ không vì
thấy thị trường giảm sút mà chuyển sang chế tạo sản phẩm khác. Ông cho rằng việc
sao chép sản phẩm của những Cty thành đạt rồi bán cho đối tượng không truyền thống
là sự đánh mất sự độc đáo của Cty.
Sai lầm của các công ty ở Việt
Nam
Theo
giáo sư Michael Porter, điểm bắt đầu để thiết lập chiến lược là có mục tiêu tài
chính rõ ràng, tạo nên giá trị kinh tế thực sự. Do đó, các công ty cần đặt khả
năng sinh lời làm mục tiêu đầu tiên, chứ không phải tăng trưởng, tăng trưởng chỉ
nên là mục tiêu thứ hai.
“Có
nhiều công ty ở Việt Nam rơi vào cái bẫy này. Họ quá phấn khích với tăng trưởng
nhưng không tạo nên khả năng sinh lời. Họ coi tăng trưởng là mục tiêu số một và
coi khả năng sinh lời là cái theo sau, là điều mà họ có thể đợi, đó là sai lầm”.
Giáo
sư cũng lưu ý: “Nếu bạn không tạo ra lợi nhuận, thì bạn không thể thành công
trên con đường dài, nếu bạn không tạo ra lợi nhuận thì bạn không có giá trị cạnh
tranh”.
Bên
cạnh đó, giáo sư Porter cũng nhận xét, hiện nay Việt Nam chưa có một thống kê
nào về khả năng sinh lời của các ngành. Trong khi đó, phân tích cấu trúc ngành
(ngành nào có tốt, khả năng cạnh tranh, khả năng sinh lời…) là một nguyên tắc
cơ bản mà lãnh đạo các công ty cần phải hiểu, “Nếu không các bạn sẽ như đi
trong bóng tối, chẳng biết làm sao để cạnh tranh”, ông nói.
Giáo
sư bày tỏ mong muốn lần tới đến Việt Nam, ông sẽ mang theo bảng xếp hạng khả
năng sinh lời của các ngành cho các doanh nghiệp, vì sự xếp hạng này ở mỗi nước
khác nhau. Lúc đó, các công ty ở Việt Nam có thể tìm ra được vị trí của mình
sau khi có cơ sở phân tích ngành.
Chuỗi giá trị là gì?
Để hiểu rõ hơn về các hoạt động
của doanh nghiệp nhằm phát triển lợi thế cạnh tranh và tạo ra giá trị gia tăng.
Một công cụ hữu ích để phân cách doanh nghiệp trong một chuỗi các hoạt động tạo
ra giá trị gia tăng được gọi là: value chain.
Vậy,
value chain được hiểu là chuỗi/tập hợp các hoạt động của doanh nghiệp mà moi hoạt
động góp phần gia tăng giá trị để chuyển các nguồn lực thành sản phẩm/dịch vụ đến
khách hàng. Porter định nghĩa các hoạt động chính và hoạt động hỗ trợ tạo ra
giá trị gia tăng, được thể hiện bởi sơ đồ sau:
Các
hoạt động chính tạo giá trị gia tăng:
Inbound Logistics: tiếp nhận và lưu trữ
nguyên vật liệu, cung cấp nguyên vật liệu theo yêu cầu.
Operations: các quy trình xử lý đầu vào tạo
ra sản phẩm và dịch vụ hoàn thiện.
Outbound Logistics: kho bãi lưu trữ và phân
phối sản phẩm/dịch vụ
Marketing & Sales: tiếp thị sản phẩm/dịch
vụ và bán hàng.
Service: hỗ trợ và chăm sóc khách hàng sau
khi cung cấp sản phẩm/dịch vụ.
Các
hoạt động chính nhằm mục đích hỗ trợ:
The infrastructure of the firm: cơ cấu tổ
chức, hệ thống kiểm soát, văn hóa công ty, …
Human resource management: tuyển dụng, đào
tạo, phát triển nhân viên, …
Technology development: áp dụng công nghệ để
hỗ trợ các hoạt động gia tăng giá trị.
Procurement: thu mua nguyên vật liệu, nguồn
cung cấp, thiết bị, …
Vd:
Một doanh nghiệp có chuỗi hoạt động chính làm gia tăng giá trị như sau, A >
B > C
Giả
sử đầu vào là: x -> qua hoạt động A -> sẽ được cộng thêm 1 giá trị gia
tăng là: a’. Tương tự như vậy, qua các hoạt động B và C -> sẽ được cộng thêm
1 giá trị gia tăng là: b’ + c’
Sau khi đi qua chuỗi hoạt động chính ->
tổng giá trị là: x + a’ + b’ + c’. Ngoài ra, ngoài giá trị về vật lý(a’, b’,
c’), sẽ được cộng thêm vào 1 giá trị vô hình x’ -> giá trị gia tăng được cộng
thêm bởi khách hàng.
Giá trị cuối cùng: x + a’ + b’ + c’ + x’
Value
chain là một công cụ hữu ích trong việc xác định các năng lực cốt lõi của doanh
nghiệp và các hoạt động chính của doanh nghiệp. Value chain thích hợp và tích hợp
cao sẽ tạo lợi thế cạnh tranh (mà đối thủ cạnh tranh khó có thể bắt chước) cho
doanh nghiệp:
Cost advantage: bằng việc giảm và tiết kiệm
chi phí -> tăng giá trị gia tăng.
Differentiation: băng việc thích hợp và
tích hợp cao tạo sự khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh.
Cost
Advantage
Sau
khi đã định nghĩa xong chuỗi giá trị, tiến hành phân tích chi phí, bác Porter định
nghĩa 10 chi phí tác động đến các hoạt động của chuỗi giá trị:
Tăng hay giảm lợi ích kinh tế theo gia tăng
quy mô;
Sự họ hỏi trong Doanh nghiệp;
Cơ cấu của mức sử dụng năng lực sản xuất;
Các mối liên kết xung quanh hoạt động của
Doanh nghiệp;
Sự tương quan qua lại, các mối quan hệ bên
trong, xung quanh các đơn vị kinh doanh;
Mức độ tích hợp;
Lựa chọn thời điểm;
Các chính sách của Doanh nghiệp;
Vị trí địa lý;
Các yếu tố mang tính chất thể chế: quy định,
thuế, …
Một
công ty có được lợi thế chi phí bằng cách kiểm soát các đơn vị kinh doanh tốt
hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
Lợi
thế chi phí cũng có thể được thực hiện thông qua việc cấu hình lại chuỗi giá trị.
Cấu hình lại có nghĩa là thay đổi cơ cấu sản xuất như một quy trình mới, các
kênh phân phối mới, hoặc bán hàng thông qua phương thức mới. Vd: FedEx cấu trúc
lại dịch vụ vận chuyển hàng nhanh bằng việc mua máy bay riêng của mình, thực hiện
một trung tâm và hệ thống thông tin của riêng mình.
Differentiation
Một
lợi thế khác biệt có thể phát sinh từ bất kỳ tại phần nào của chuỗi giá trị.
Vd: hoạt động mua sắm các đầu vào mà là duy nhất và không phổ biến rộng rãi đến
đối thủ cạnh tranh có thể tạo ra sự khác biệt.
Sự
khác biệt bắt nguồn từ tính độc đáo. Một lợi thế khác biệt có thể đạt được bằng
cách thay đổi hoạt động của chuỗi giá trị để tăng tính độc đáo trong sản phẩm
cuối cùng hoặc bằng cách cấu hình lại các chuỗi giá trị.
Bác
Porter xác định một số yếu tố tác động đến sự độc nhất:
Lựa chọn chính sách cho Doanh nghiệp;
Các liên kết xung quanh các hoạt động;
Lựa chọn thời điểm;
Vị trí;
Sự tương quan qua lại;
Sự học hỏi;
Sự tích hợp;
Quy mô (Vd: Với quy mô lớn, có thể thực hiện
được các cách thức độc nhất mà quy mô nhỏ không thể làm được)
Các yếu
tố mang tính thể chế.
Sự
khác biệt thường dẫn đến chi phí cao hơn, đòi hỏi sự cân bằng giữa chi phí và sự
khác biệt.
Có
một số cách mà trong đó Doanh nghiệp có thể cấu hình lại chuỗi giá trị của nó để
tạo ra tính độc đáo: thực hiện quá trình công nghệ mới, sử dụng các kênh phân
phối mới … Nhưng trên hết, Doanh nghiệp cần phải được sáng tạo để phát triển một
chuỗi giá trị mới phù hợp với ngành nghề lĩnh vực kinh doanh, làm tăng sự khác
biệt của sản phẩm.
Tại buổi hội thảo của bác Porter ngày 30/11/2010
có nói: “… có một xu hướng tự nhiên của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp là làm
sao trở thành công ty tốt nhất trong lĩnh vực của mình. Một công ty đóng tàu tốt
nhất, một ngân hàng tốt nhất, một công ty thực phẩm tốt nhất … Thế nhưng đó lại
là một cái bẫy. Phải là người độc nhất”
“Bởi vì trong cạnh tranh thì không có công
ty nào là tốt nhất, trong bất cứ ngành nào”, Bác Porter lý giải. Công ty tốt nhất
phụ thuộc vào nhu cầu mà chúng ta cố gắng đáp ứng, trong khi đó nhu cầu thì rất
khác nhau. Ví dụ, cái xe nào là tốt nhất? Chẳng có cái xe nào tốt nhất cả, mà tất
cả phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng, phụ thuộc vào số tiền khách hàng muốn
chi trả, vào sự sử dụng chiếc xe khách hàng sẽ sở hữu. Tất cả phụ thuộc vào nhu
cầu nào mà bạn cố gắng đáp ứng được.
“Do đó, khi tính đến chiến lược, bạn không
thể nghĩ đến việc trở thành người tốt nhất, mà phải nghĩ làm sao mình trở thành
độc nhất (unique). Làm sao tạo nên giá trị độc đáo, đem lại cho khách hàng của
mình, dù là trong bất kỳ lĩnh vực nào”.
Bác Michael Porter nhấn mạnh, sai lầm tồi tệ
nhất trong chiến lược là tham gia vào cuộc cạnh tranh về cùng một sản phẩm giống
nhau. Điều đó sẽ khó đem lại thành công, với bất kỳ ai, và nó cũng không tốt
cho khách hàng vì họ không có sự lựa chọn nào khác.
“Nói cách khác, chiến lược có thể đem lại
thành công là bạn phải đem lại sự lựa chọn khác cho khách hàng, giúp mang lại vị
trí độc quyền của công ty”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét