Pages

Suy cổ luận kim về thương nhân người Việt







Lương Văn Can - Cuộc đời- sự nghiệp

Lương Văn Can (1854-1927), tên tự là Ôn Như, hiệu là Sơn Lão, là nhà cách mạng Việt Nam, là một trong những người sáng lập ra và làm hiệu trưởng trường Đông Kinh nghĩa thục năm 1907. Ông quê ở làng Nhị Khê, bây giờ là xã Nhị Khê huyện Thường Tín, Hà Nội, Việt Nam.
Năm 1871, khi 17 tuổi, Lương Văn Can đỗ thi Hương, vào tới tam trường. Năm 1875, ông thi đỗ Cử nhân, nhưng do bố mất, năm sau ông không đi thi Hội nữa. Sau đó ông ở nhà cưới vợ là bà Lê Thị Lễ, và tới năm 25 tuổi (1879) ông mở trường dạy học tại số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội. Vì đỗ cử nhân, ông thường được gọi là "cụ Cử Can".
Vào thời điểm này Việt Nam đang ở nằm trong thế suy vong và đứng trước họa xâm lăng của người Pháp. Là nhà nho yêu nước, ông đã học hỏi theo sách của các nhà tư tưởng tiến bộ của phương Đông như: Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, ... lẫn phương Tây như: Voltaire, Montesquieu, ... nhằm tìm con đường canh tân đất nước. Khi thấy cuộc cải cách Minh Trị thành công trên đất Nhật Bản, học tập người Nhật, ông cùng bạn bè tìm cách thành lập một trường học, theo kiểu trường Khánh Ưng nghĩa thục của Phúc Trạch lập ở Nhật, để làm cuộc cách mạng về văn hóa, đồng thời tuyên truyền lòng yêu nước, tinh thần chống Pháp trong dân chúng Việt Nam. Với mục đích đó, năm 1907 trường Đông Kinh nghĩa thục ra đời ở 10 Hàng Đào, và căn nhà ông ở phố Hàng Đào cũng trở thành nơi học. Từ trường Đông Kinh nghĩa thục này ở Hà Nội, phong trào Đông Kinh nghĩa thục lan đi rất nhanh và sâu rộng tới các tỉnh như: Hà Đông, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, ..., Quảng Nam,... làm thực dân Pháp lo sợ.
Tháng 12.1907, nhà trường bị cấm hoạt động, ông cùng một số đồng chí bị bắt giam; không khai thác được gì, thực dân Pháp đành phải thả ông. Năm 1913, bị Pháp kết án biệt xứ và đày đi an trí ở Phnôm Pênh (Cămpuchia). Năm 1924, được tha về. Mất tại Hà Nội. Còn lại hai bài thơ "Khuyến trung" và "Cảm tác" đều nêu cao tấm lòng trung với nước. Cuốn "Đại Việt địa dư" xuất bản 1925 là một cuốn địa lí diễn ca. Cuốn "Luận ngữ cách ngôn diễn giải" cũng giúp cho các thế hệ thanh niên trước đây tìm hiểu về Khổng giáo.
Lương Ngọc Quyến, hiệu là Lập Nham, sinh năm 1885 tại Hà Nội trong một gia đình khoa cử khá giả. Tổ quán là làng Nhị Khê, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (quê hương Nguyễn Trãi) nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Cha là cụ Cử Ôn Như Lương Văn Can, anh cả là ông Lương Trúc Đàm, những người sáng lập và điều hành Đông Kinh Nghĩa Thục (1907). Thưở nhỏ Ngọc Quyến cũng dùi mài kinh sử, miệt mài với chồng sách cũ, dũa vần gọt chữ để mong có ngày tranh khôi đoạt giáp cùng các bạn. Khóa thi Hương năm Canh Tý (1900) vừa tròn 15 tuổi anh hăm hở lều chõng lên đường. Nhưng bị hỏng vì bài phú, anh liền tỉnh ngộ, nhận ra lối học khoa cử từ chương là hủ bại. Chính nó đã làm cho dân mình hèn, nước mình mất. Rồi anh tìm đọc sách tân học của Trung Quốc, rất tâm đắc với tư tưởng duy tân cách mạng của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, anh sớm nhận ra thanh niên Việt Nam phải mau học tập binh cơ võ bị tân thời mới mong đánh đuổi được kẻ thù, giành lại quyền tự do độc lập cho đất nước.
Tìm đường cứu nước
Năm 1905, vừa tròn 20 tuổi, Lập Nham quả quyết từ bỏ cuộc sống sang giàu chốn Hà thành, bái biệt cha mẹ, làm giấy cho phép vợ hiền cải giá, rời bỏ đứa con gái nhỏ mà đi.
Phan Bội Châu,trong Ngục trung thư có viết về người thiếu niên quả cảm họ Lương như sau:
“Tháng 10 năm Ất Tỵ (1905), tôi đến Hoàng Tân, về nhà trọ cũ đã thấy nói có một thanh niên học sinh ta đã đến ở đó trước, có ý chờ đợi hỏi thăm về tôi… Thì ra là Lương quân Lập Nham, con Cụ Cử Ôn Như. Tôi xem ra người có khí phách hăng hái, đôi mắt sáng quắc, đầu tóc còn để bờm xờm. Một thanh niên chứa sẵn kỳ khí, có hoài bão cao xa, chỉ nghe nói tôi mới sang Đông mà đã mạnh bạo bỏ nhà ra đi một thân một mình, không kể gì gian nan nguy hiểm. Chao ôi! Nếu thanh niên nước nhà mà được nhiều người có ý chí kiên cường mạo hiểm như Lương quân thì con đường phục quốc của ta sẽ rút ngắn được biết bao nhiêu!”.
Thời gian đầu ở Đông Kinh, Lập Nham một mặt học Nhật ngữ để sửa soạn vào trường võ bị Chấn Võ, một mặt viết thơ về động viên các đồng chí gửi người sang du học. Trong vòng hai năm đã có trăm học sinh ta được gửi sang học các trường ở Nhật do các nhà hảo tâm trong nước tài trợ. Nhưng rồi một hiệp định được ký giữa Nhật và Pháp yêu cầu Nhật phải trục xuất những người Việt ra khỏi đất Nhật trong vòng 48 tiếng. Dĩ nhiên hai ông đầu đàn Phan Bội Châu và Cường Để phải đi trước. Như rắn mất đầu, anh em Đông Du chới với. Riêng Lập Nham và em trai là Nghị Khanh nhờ lộn sòng quốc tịch mà được ở lại.
 
Trong lịch sử của nước Việt Nam, số người viết về các vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế, kinh doanh không nhiều. Tác giả tiêu biểu nổi lên có cụ Lương Văn Can và cụ Phan Kế Bính. Hai cụ đều là những học giả uyên bác. Cụ sống từ cuối thế kỷ XIX qua những năm đầu của thế kỷ XX, chứng kiến nhiều sự thay đổi của đất nước khi tiếp xúc với văn minh phương Tây, trong đó có thay đổi về phong tục. Trong cuốn “Việt Nam phong tục”- Phan Kế Bính và “Thương học phương châm” – Lương Văn Can, hai Cụ đã có những kiến giải rất súc tích về nghề buôn bán. Thiết nghĩ, đây là tư liệu có ích để các doanh nhân ngày nay “suy cổ luận kim”.
Cụ Lương Văn Can trong cuốn “Thương học phương châm” đã tổng kết 10 nhược điểm yếu kém của doanh nhân Việt như sau:
- Không có thương phẩm
- Không có thương hội
- Không có chữ tín
- Không có kiên tâm
- Không có nghị lực
- Không biết trọng nghề
- Không có thương học
- Kém đường giao thiệp
- Không biết tiết kiệm
- Khinh bỉ nội hóa
Còn trong cuốn “Việt Nam phong tục” của mình, cụ Phan Kế Bính đã chỉ rõ nguyên nhân yếu kém của các doanh nhân An Nam như:
… “Xét ra việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước cũng bởi nhiều cớ:
Một là, vì ta không biết trọng nghề buôn bán. Phần nhiều người chỉ nô nức về đường công danh, sĩ hoạn mà coi nghề buôn bán là một nghề khinh thường. Người giàu có cho con đi học, mong cho con về sau nhất ra thì làm nên ông nghè ông bảng, không nữa thì cũng phải làm được ông hậu ông hàn, chớ nào ai mong cho con mai sau làm nên bác lái này ông tài nọ. Người làm quan trở về thì lấy gió mát trăng thanh, cúc thơm lan tốt, chè chuyên thuốc quấn, đàn ngọt hát hay làm vui thú, chớ nào ai thiết gì ông chủ cửa hàng nọ, ông quản lý cửa hiệu kia. Mà các bác nhờ tổ ấm đủ bát ăn thì cũng lấy sự thanh nhàn là thú ở trên đời, còn việc buôn bán thây mẹ đĩ. Té ra bao nhiêu công việc buôn bán phần nhiều ở trong tay người đàn bà và ở trong bọn mấy chú lái thì mong sao mà mở mang to ra được.
Hai là, nhát tính không dám đi xa. Người nhờ có dấn vốn chỉ ngồi phèn phệt một xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám dời đi đâu cả. Ví dụ có chăng nữa thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải Phòng, Sơn Tây xuôi Nam Định đã cho là xa xôi, ai bần cùng lắm mới lên đến Lào Cai, Yên Bái, hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ những lo nước độc, ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc mà quanh năm chí tối bán quẩn, buôn quanh.
Ba là, vì không có lòng thành thật, nhất là những kẻ gian tham của một nói thách lên mười đề lừa những người khờ dại, nhờ cái sự sơ ý của người ta mà kiếm ăn làm giầu, làm có, thì cái tài ấy cũng đáng khinh bỉ lắm. Lại còn những kẻ giả dối, điêu trách nói tốt bán của xấu càng người quen càng lèn cho đau thì cũng đáng khinh nữa. Đến như các nhà hợp cổ mở ra hội này hội khác, công việc chưa thành, đã đem lòng ngờ vực nhau rồi. Nào là chủ hội thì nghi cho người làm công ăn bớt, nào là người cổ phần thì nghi cho chủ hội hà lạm mà rồi thì ai ai cũng chỉ muốn giữ lợi riêng, chẳng quản gì đến hội nữa. Vì thế người có phần sinh chán, mà chẳng bao lâu phải tan.
Bốn là, vì ta không có lòng kiên nhẫn. Phàm là việc gì, có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc hơi vấp váp điều gì thì đã ngã lòng ngay. Hoặc người đóng cửa trả môn bài, hoặc người xin thôi cổ phần, làm cho các việc có cơ tấn tới mà cũng phải tan không thành nữa.
Năm là, vì ưa phù hoa, lấy sĩ diện với ngoài. Ai buôn bán hơi được kha khá phát tài, đã vội vàng đổi ngay bộ dáng cũ. Cửa nhà trang sức rực rỡ, coi ra dáng đại phú gia rồi. Đi đâu thì quần nọ áo kia, xe xe ngựa ngựa, nghênh ngang lên mặt tưởng không ai bằng ta, nhất là dư của mà mua được tiếng ông hàn, ông bá thì lại coi ra dáng nữa. Chí khí nông nổi như vậy thì tích luỹ làm sao cho nên một vốn to, để mở mang cho mỗi ngày một phát đạt. Vì các lỗi trên này mà đường buôn bán suy nhược, trách nào mà bao nhiêu lợi quyền chẳng vào tay người khác.
Ít lâu nay đã có người hiểu cách buôn bán là trọng, lập nên công này, việc khác cũng đã ra tuồng và cũng đã được hưởng những lợi quyền sung sướng ở trong việc buôn bán. Song nghìn người mới được một vài người, chớ phần nhiều vì vẫn u u mê mê như trước mà dẫu có muốn mở mang cũng không có lòng thành tín và lòng kiên nhẫn để cho nên một cuộc hay.
Than ôi! Việc lý tài chung của một nước, trọng nhất là sự buôn bán. Đường buôn bán có thịnh thì nước mới thịnh, đường buôn bán mà suy thì nước cũng suy. Thử xem như các nước cường thịnh bây giờ nước nào là nước không có tàu đi buôn đi nhiều nơi. Nước nào là nước không có hiệu buôn lập nhiều chốn, có đâu lại lạ như nước ta, không được một chiếc tàu nào xuất dương, một cửa hàng nào ở ngoại quốc, vậy mà cứ muốn vinh dự như các nước, thì vinh làm sao được?”
saga.vn  – sưu tầm và tổng hợp



Lương Văn Can - người thầy của giới doanh thương

Trong sự nghiệp trước tác của Lương Văn Can, có hai quyển sách bàn về việc kinh doanh mà lâu nay ít được biết tới. Ðó là quyển "Kim cổ cách ngôn" và "Thương học phương châm" (hiện còn ở dạng bản thảo, lưu giữ tại thư viện khoa học trung ương và gia đình tác giả).

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, "Kim cổ cách ngôn" là "một thứ sách giáo khoa bàn về cách làm giàu và bàn về của cải để mong tìm ra một "đạo làm giàu" của người Việt Nam mà không bị cuốn vào cơn lốc làm giàu của xã hội thời thuộc địa".

Trong phần luận về "Ðời người và của cải", Lương Văn Can viết: "Người ta từ sự ăn uống, may mặc đến những việc trưởng thành như lấy vợ, lấy chồng... đều phải cậy nhờ vào của cải. Của cải là sự sống còn của con người. Chính vì vậy khi dùng của cải phải xem nguồn gốc của nó có trong sáng không, có hợp nghĩa không... Nguồn của cải đã trong sáng thì việc chi tiêu phải có đạo, phải tính toán cân nhắc việc nặng, việc nhẹ, việc khoan, việc gấp, việc trước, việc sau. Việc gì nên chi thì chẳng nên kiệm, việc gì cần phải kiệm thì chẳng nên chi...".

Bàn về kinh doanh, tác giả cho rằng "kinh doanh phải hiểu nghĩa". Ông viết: "Bí quyết thành công đối với nhà kinh doanh là ở sự trung thực. Nghĩa là nguồn lợi thu về phải theo lẽ tự nhiên, đừng bao giờ vì lợi mà làm điều xằng bậy hoặc phiêu lưu mạo hiểm. Giả dụ như người tích trữ gạo, vải mà lại mong mất mùa lúa, mùa bông thì đó là cái tâm địa ích kỷ, độc ác. Lại có người kinh doanh chuyên mua thừa bán thiếu, làm hàng giả để đánh tráo hàng thật, cũng bởi lòng tham không cùng mà thôi. Xét kỹ ra, người ta giàu nghèo ở tâm đức, ở lòng ngay thẳng, khoan hậu với người, đấy cũng là phép thuật kinh doanh vậy!...".

"Thương học phương châm" là một quyển sách rất đáng chú ý bởi vì nó không chỉ hướng dẫn cụ thể về nghề thương mại mà còn đề cập đến vai trò của thương mại đối với sự phát triển kinh tế và mổ xẻ tình trạng thương mại yếu kém của nước ta thời phong kiến.

Theo nhà nghiên cứu Trần Thái Bình, quyển sách này bao gồm các mục: Tựa, Tư bản, Tổ chức sự buôn, Tính toán, Sổ sách, Thư từ, Thương hiệu, Thương tiêu, Thương địa, Thương điếm, Bày hàng, Quảng cáo, Giao tế tiếp giản, Ðiều lệ nhà băng, Sự buôn bán nước ta... Chưa vội đi vào chi tiết, chỉ lướt qua các đề mục này cũng có thể thấy ngay rằng từ cách đây hơn 70 năm, tác giả đã là người có kiến thức rộng về kinh doanh và các vấn đề được đưa ra bàn chẳng khác mấy - có chăng là từ ngữ - với khoa thương mại hiện đại. Cũng là các vấn đề vốn, kế toán, tiếp thị, bán hàng, giao tế, thương hiệu...

Trong lời tựa, tác giả khẳng định: "Ðương buổi thế giới cạnh tranh này, các nước phú cường không đâu là chẳng đua tài, thi sức, ở trong trường thương chiến, văn minh càng tiến bộ, buôn bán càng thịnh đạt. Việc buôn bán thịnh suy có quan hệ đến quốc dân thịnh suy như thế, ta há nên coi thường xem khinh sao được".

Phân tích nguyên nhân không phát triển của thương mại nói riêng, kinh tế nước ta nói chung, Lương Văn Can vạch ra 10 điểm; đó là: 1. người mình không có thương phẩm; 2. không có thương hội; 3. không có tín thực; 4. không có kiên tâm; 5. không có nghị lực; 6. không biết trọng nghề; 7. không có thương học; 8. kém đường giao thiệp; 9. không biết tiết kiệm; và 10. không nội hóa.

Do vậy, theo ông, để cho dân giàu nước mạnh, cần phát triển nghề buôn, và mọi người cần chú trọng thực nghiệp, phải lưu tâm nghiên cứu thương học. Ông viết: "...nước ta ngày trước học Nho chỉ chí tại thi đỗ để ra làm quan, ngày nay học Tây chỉ chí tại tốt nghiệp để ra làm việc, ít người chí làm thực nghiệp. Hoặc có một bọn muốn làm nghề buôn mà tư bản đã ít, học thức cũng kém, chỉ được mấy năm thì thất bại khánh tận ngay, ấy chỉ bởi không có thương học mà đến thế".

Ðó cũng chính là mục đích khiến ông viết tác phẩm này, với lòng mong mỏi: "Ðộc giả chọn lấy mà xem cho biết sự thể tình hình, may ra nghề buôn nước ta có phát đạt hơn trước được chăng".

Cũng cần nói thêm là Lương Văn Can không chỉ viết sách dạy buôn bán mà chính ông cũng từng xắn tay vào cuộc kinh doanh. Lúc bị lưu đày ở Nam Vang, ông đã cùng với vợ là bà Lê Thị Lễ lập một đường dây xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Hà Nội và thị trường Cambodia.

Hơn 70 năm trước, chuyện một nhà cách mạng xuất thân từ Nho học, chẳng qua một trường lớp kinh tế nào lại viết sách dạy buôn bán, đó quả là một điều lạ lẫm, đáng ngạc nhiên. Càng ngạc nhiên hơn nữa khi những lập luận, phân tích và kiến thức trình bày trong đó rất sắc sảo, cụ thể, khác với kiểu tư duy trừu tượng, xa thực tế và quan niệm cổ hủ của phần lớn trí thức khoa bảng thời đó. Tuy vậy, điều đó cũng không có gì khó hiểu đối với những người mà khát vọng canh tân tự cường đất nước mãnh liệt đến mức có thể xô ngã những ràng buộc, rào cản của những lề thói và quan niệm lệch lạc đã tồn tại cả ngàn năm.

 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Lịch vạn niên

Đồng hồ

Số lượng người truy cập

Nhận xét

Số lượng người truy cập: