HOA LAN
Hoa lan đứng hàng thứ tư trong “thập đại danh hoa” (1), mọi người thường gọi là “hoa trung quân tử” 花中君子. Hoa lan vốn mọc ở những sườn núi ẩm phía đông nam Trung Quốc, và cũng có lịch sử chăm trồng lâu đời. Cuối thời Xuân Thu, Việt Vương Câu Tiễn 勾践 trồng lan tại Chử sơn 渚山 Thiệu Hưng 绍兴, thời Nguỵ Tấn trồng điểm xuyết trong sân vườn, thời Đường đưa trồng vào chậu, thời Tống ngày càng phổ biến, thời Minh Thanh là cực thịnh. Ngày nay trong vương quốc của hoa lan ước có khoảng hơn 500 chủng loại, phân bố khắp nơi trên thế giới. Hoa lan thuộc loại thảo mộc thường xanh, theo tập tính sinh thái khác nhau, có thể phân làm 2 loại lớn:
Địa sinh lan 地生兰 sống trên mặt đất.
Khí sinh lan 气生兰 sống bám vào cây khác hoặc bám
vào vách đá.
Lá của lan dài và cứng, bóng láng; hoa thì thiên hình vạn trạng, tươi đẹp đạm
nhã; mùi hương dịu ngọt thuần khiết. Dựa vào thời kì của hoa, có thể phân thành
Xuân lan 春兰 (cũng gọi là Thảo lan 草兰), Hạ lan 夏兰 (tức Huệ lan 蕙兰), Thu lan 秋兰 (thông xưng là Kiến lan 建兰), Hàn lan 寒兰 cùng Mặc lan 墨兰, một năm bốn mùa theo thứ tự mà nở.
Còn luận theo hình thái cánh hoa, lại có thể phân ra hà biện 荷瓣 (cánh sen), mai biện 梅瓣 (cánh mai), điệp biện 蝶瓣 (cánh bướm), thuỷ tiên
biện 水仙瓣 (cánh thuỷ tiên), tố tâm
biện 素心瓣. Sắc của hoa có màu xanh non, hoặc
vàng nhạt, tím nhạt, tím đậm; cũng có cả các màu trắng, vàng, tím, xanh, đỏ.
Hoa lan thanh nhã điểm thêm lá xanh phiêu dật, treo trên vách đá dáng an nhàn
tự đắc, phô chốn sân vườn không kiêu ngạo không tự ti, mang đến cho con người
sự tưởng tượng phong phú. Nếu để hoa lan trong nhà, không chỉ ấn chứng cho
triết lí:
Nhã thất hà tu đại
Hoa hương bất tại đa
雅室何须大,
花香不在多
(Nhà đẹp cần gì phải lớn
Hương hoa đâu phải cứ nhiều)
Mà còn thêm thú vị:
Toạ cửu bất tri hương tại thất
Thôi song thời hữu điệp phi lai
坐久不知香在室
推窗时有蝶飞来
(Ngồi lâu chẳng biết trong nhà có mùi
hương
Lúc mở cửa sổ, thì bướm bay vào)
Văn nhân mặc khách các đời thưởng thức, sùng kính, ái mộ hoa lan, nguyên do ở
chỗ phẩm cách của hoa lan như một bậc quân tử thung dung tự tại. Khổng Tử lấy
đạo nhân nghĩa đi du thuyết các chư hầu thất bại, trên đường trở về đến một
hang núi, không thấy hoa mà lại ngửi được mùi thơm. Khổng tử vạch cỏ tìm, phát
hiện một cây hoa lan tươi tốt, liền cảm khái:
Lan sinh vu u cốc, bất dĩ vô nhân nhi
bất phương; quân tử lập đạo tu đức, bất vị cùng khốn nhi cải tiết.
兰生于幽谷, 不以无人而不芳; 君子修道立德, 不为穷困而改节.
(Hoa lan mọc nơi hang vắng, không vì
không có người mà không thơm; quân tử tu đạo lập đức, không vì cùng khốn mà
thay đổi khí tiết)
ca ngợi phẩm cách và mùi hương thanh
khiết của hoa lan, từ đó có những lời khen như “Hương tổ” 香祖, “Thiên hạ đệ nhất hương” 天下第一香. Có thể lấy tranh và thơ để ví dụ:
Cuối thời Tống, Trịnh Sở Nam 郑所南 vẽ bức mặc lan cực đẹp, quan huyện bắt vẽ cho mình
nhưng không được bèn dùng thuế để ép. Trịnh ông đáp rằng:
Đầu khả phá, lan bất khả hoạ
头可破, 兰不可画
(Đầu có thể nát chứ lan không thể vẽ)
Cho nên trong nhà treo bức hoa lan lớn, bên trên đề câu
Thuần thị quân tử, tuyệt vô tiểu nhân,
thâm sơn chi trung, dĩ thiên vi xuân.
纯是君子, 绝无小人, 深山之中, 以天为春
(Thuần là quân tử, tuyệt không có tiểu
nhân, ở nơi núi sâu, lấy trời làm mùa xuân)
biểu đạt khí cốt ngạo nhiên không sợ
quyền thế của bậc quân tử.
Trịnh Bản Kiều 郑板桥, một trong Dương Châu bát quái 扬州八怪cuối đời Thanh, khi đề thơ cho bức
“Phá bồn lan hoa đồ” 破盆兰花图, có viết:
Nhi kim cứu cánh vô tri kỉ
Đả phá ô bồn cánh nhập sơn
而今究竟无知己
打破乌盆更入山
(Đến nay rốt cuộc không tri kỉ
Bỏ chậu về nơi chốn núi rừng)
Chủ trương hoa lan về lại chốn rừng
sâu, ý nói con người rời bỏ thế tục. Trịnh Bản Kiều cả đời rất yêu lan, trúc,
như ông tự nói:
Cái kì trúc thiên diệp giai thanh thuý, lan hoa diệc nhiên, sắc
tương tự dã; lan hữu u phương, trúc hữu kính tiết, đức tương tự dã; trúc lịch
hàn thử nhi bất điêu, lan phát tứ thời nhi hữu nhuỵ, thọ tương tự dã.
盖其竹千叶皆青翠, 兰花亦然, 色相似也; 兰有幽芳, 竹有劲节, 德相似也; 竹历寒暑而不凋, 兰发四时而有蕊, 寿相似也.
(Trúc ngàn lá đều xanh tốt, hoa lan cũng vậy, đó giống như là sắc; hoa lan có
mùi hương u nhã, trúc có đốt cứng thẳng, đó giống như là đức vậy; trúc trải qua
nóng lạnh mà không héo úa, hoa lan nở bốn mùa mà vẫn tốt tươi, đó giống như là
thọ vậy)
Đó há chẳng phải là khắc hoạ phẩm đức cao khiết nhân nhân chí sĩ sao?
(còn tiếp)
Chú của người dịch
1- Theo sự bình chọn do Thượng Hải
Viên lâm học hội 上海园林学会 cùng tạp chí “Viên Lâm” “园林”, Đài truyền hình Thượng Hải, Nhà xuất bản Văn hoá Thượng
Hải phối hợp tổ chức từ ngày 20/11/1986 đến ngày 5/4/1097, đã chọn ra 10 loại
hoa được xếp theo thứ tự như sau:
Hoa mai, hoa mẫu đơn, hoa cúc, hoa lan, hoa nguyệt quý, hoa đỗ quyên, hoa sen,
hoa trà, hoa quế, hoa thuỷ tiên.
Nguồn http://baike.baidu.com/view/266461.htm
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 18/01/2017
Nguyên tác Trung văn
LAN HOA
兰花
Trong quyển
THƯỞNG HOA MỊCH DƯỢC
赏花觅药
Tác giả: Cát Đức Hoành 葛德宏
Thượng Hải Trung y dược đại học xuất
bản xã, 2000